Theo dòng lịch sử...
...Các địa danh ở Blao..
Ghi chép: Ninh Thế Hùng.(giới thiệu tham khảo)
Ghi chép: Ninh Thế Hùng.(giới thiệu tham khảo)
Trải qua gần một thế kỷ, thành
phố Bảo Lộc bây giờ với hơn 130 ngàn người đã là một đô thị lớn phía nam tỉnh
Lâm Đồng. Còn vùng Blao xưa, bây giờ dân số phải hơn 400 ngàn với hai đợt đông
di dân đến vào năm 1954 và sau năm 1975, các vùng núi non âm u, hoang vắng ngày
trước, được khai khẩn gần hết, chỉ còn sót lại các ngọn núi cao, từ đó xóm làng
mọc lên khắp các sườn đồi, hẻm núi với những tên gọi phản ánh của từng thời kỳ.
Tên gọi: Nơi thời gian lắng đọng
Tại nơi bây giờ là thành phố Bảo
Lộc, hồi năm 1930, chỉ có một xóm 8 gia đình người Kinh vốn là người vùng Phan
Thiết lên buôn bán rồi ở lại lập nghiệp. Năm 1936 mới có 20 nóc gia, rồi những
người gốc miền Bắc, miền Trung đi công tra hết hợp đồng tìm đến, công nhân của
các đồn điền mới lập và cả lưu dân đi tìm đất mới tụ hội về, lập thành một cụm
cư dân ven quốc lộ 20, gọi là xóm Làng. Cuối xóm có khoảng rừng thưa chừng hơn
một mẫu tây, một đôi cọp thường ngủ ngày dưới gốc cây đa lớn ở đấy, bà con xóm
Làng lập đình thờ Sơn thần, gọi là đình làng Công Hinh. Về sau cọp không còn,
nhưng ngôi đình vẫn còn đó dù diện tích bò thu hẹp nhiều và chuyển thành đền
Hùng Vương. Cư dân trong vùng dần dần đông lên, khoảng năm 1950 thành một xã,
mang tên Công Hinh, lấy từ tên Blao Kon Hin của buôn người Mạ vốn là chủ vùng
đất ấy.
Trước khi người Kinh đặt chân
đến, người Mạ bản địa hay dùng những đặc điểm của vùng đất mình cư ngụ để đặt
tên buôn làng, như B’su Đăng Lú - buôn B’su trên đồi đá, buôn B’Tạch – buôn ở
vùng cây mâm xôi, buôn Blao Klong Ner- buôn Blao ở chỗ hục suối hình cái nia...
Đến nay, nhiều đơn vị hành chánh vẫn dùng những tên bản địa như Đạ Ploa - suối
ngà voi, Đạ Kho, đúng ra phải là Đạ Koh- suối trắng, Đạ Mbri - suối có người
hoá cọp… với những tên bản địa, nó như một trang lịch sử của vùng đất.
Cách ghi nhớ của người xưa, khi
không có chữ viết quả là đặc biệt, con cháu những thế hệ sau, căn cứ vào các
bài hát truyền miệng và các địa danh để có những hiểu biết về buôn làng mình,
cho dù chẳng có là bao, nhưng như vậy cũng là đáng quý rồi, nó cho chúng ta
ngày nay, hé mở được một chút về thời xưa xa, mà thời gian đã làm nhạt nhoà dấu
vết.
Khi về vùng Blao lập nghiệp sau
năm 1954, những cư dân gốc Bắc đã lấy tên nơi gốc cũ ghép thêm chữ tân, để đặt
tên cho nơi ở mới như Tân Hoá, Tân Thanh: Thanh Hoá mới, Tân Phát: Phát Diệm
mới, Tân Hà: Hà Nội mới… với mong muốn bảo lưu được các nét đẹp văn hoá của quê
xưa trên vùng đất và còn tiềm ẩn nỗi nhớ quê hương bản quán, của người Việt
xưa.
Cùng thời điểm này, một số nơi
trong vùng người Mạ, các đơn vị hành chánh mới lập cũng mang chữ Tân như Tân
Lú, Tân Rai, Tân Đồn,… nhưng theo ông K’Tùi, một trí thức ở buôn B’su Đang Lú
thì chữ tân này là chuyển âm sang tiếng Việt của chữ tơng hay thơng trong tiếng
Mạ nghĩa là thung lũng. Nếu đúng là như thế, thì cách đặt tên này kế thừa được
truyền thống đặt tên của người bản địa: Tân Lú- Tơng Lú - thung lũng đá, Tân
Đồn - Tơng Dờng - thung lũng mẹ - Tân Long - Tơng Klong - thung lũng cây dầu.
Sau ngày đất nước thống nhất ,
vùng Blao xưa lại đón thêm nhiều đợt di dân kinh tế mới từ miền Trung, miền Bắc
vào. Họ mang theo bản sắc, phong tục tập quán và hoài niệm quê hương, nên
thường đặt tên làng xã mới bằng tên nơi quê cũ như Gia Viễn, Tiên Hoàng, Phước
Cát… làm cho Blao ngày càng thêm đa dạng và mang cả dấu ấn các vùng miền.
Chính quyền cách mạng trong những
năm giữa thập niên 70 thế kỷ trước, khi sắp xếp lại các đơn vị hành chánh đã
ghép với chữ Lộc lấy từ tên huyện Bảo Lộc vào tên các đơn vị hành chánh cũ
thành tên mới như Lộc Châu, Lộc Phát, Lộc Thanh,… hoặc dùng các đặc điểm địa lý
bản địa để đặt tên như Lộc Bắc, Lộc Nam, Lộc Lâm, Lộc Trung… đã làm phong phú
thêm các địa danh trên đất Blao xưa, nhưng cũng không làm mất đi gốc gác của
các địa danh có từ trước.
Bên cạnh các tên gọi chính thức,
là địa danh hành chánh trong từng thời kỳ, vẫn tồn tại những địa danh có nguồn
gốc dân dã, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trong quá trình sinh sống, làm ăn
của dân cư từng vùng như: Ngã ba Blao phẹc, đèo B40, Dốc Ánh Mai, Đồi Dổi, Suối
Cát, Dốc Đỏ, xóm Bắc… hàng trăm cái tên như thế, do dân gian tự đặt, chẳng được
ai công nhận cả nhưng nó vẫn tồn tại và khi nói đến, mọi người đều biết nó ở
đâu.
Các địa danh của nhiều thời kỳ,
dù có gốc gác, xuất xứ thế nào, giờ vẫn tồn tại song song nhau, phản ảnh tính
đa dạng của một vùng đất mới, như một chút dấu vết lịch sử còn lắng đọng lại
trên khắp đất Blao xưa.
Khi đến xứ Blao, vừa qua khỏi đỉnh
đèo Blao, đã thấy bạt ngàn màu xanh của trà, các đồi trà chập chùng kế tiếp
nhau, làm cả vùng thành một màu xanh đậm.Cũng như nhiều nơi khác trên Tây
Nguyên, Blao trồng cây công nghiệp, nhưng không phải cà phê như Buôn Ma Thuột,
Di Linh hay điều, tiêu, cao su như Đắc Nông, Gia Lai, Blao trung thành với cây
trà. Trải bao thăng trầm trong cơn lốc chuyển đổi vật nuôi cây trồng, cây cà
phê, cây dâu tằm có thời tưởng đã chen vào thay thế, nhưng đến bây giờ, cây trà
vẫn đứng vững và khẳng định vị thế của mình trên cao nguyên đất đỏ này. Chính
người Pháp, khi chủ trương khai thác vùng Nam Tây Nguyên, đã thử nghiệm và sau
đó phát triển trồng trà trên đất Blao, từ đầu thập niên 30 thế kỷ trước, với
các đồn điền của chủ tư bản Pháp, tư bản Hoa kiều, có lúc đã lên đến hơn 50 đồn
điền lớn nhỏ. Đến khi cư dân đàng ngoài vào lập nghiệp, trà được trồng nhiều
hơn, trở thành cây trồng chủ lực của cả vùng, rồi dần dà công nghiệp chế biến
trà hình thành, cùng lúc với sự ra đời của ngành ướp trà hương, tạo thành một
trường phái chế biến và uống trà khác hẳn vùng trà phía bắc.
Ngày trước, khi lên đỉnh Spung từ
thành phố Bảo Lộc phải đi bộ cả ngày đường, vì phải đi qua các cánh rừng dầu
hàng trăm năm tuổi, các trảng cỏ tranh trải dài, hết sườn đồi này sang sườn đồi
khác, nhiều khi phải men theo con nước róc rách chảy ra từ khe đá giữa cánh
rừng già nguyên sinh. Nhưng khi lên đến đỉnh, trong làn gió mát lạnh thổi đến
từ khe núi nào đó, có thể nhìn thấy toàn cảnh của phía nam Bảo Lộc, một phần
của đất Blao xưa, có thể thấy dãy núi dài chia đôi đất Blao, Bun Trao - Kon
Klang với đỉnh Pàng Per có hai ngọn nhìn như hai người đang chụm đầu thì thầm
nói chuyện ở phía bắc, với những cánh rừng thông nhựa có màu xanh nhạt trải
rộng, hay dãy núi ở bên trái suối Đạ Giam chạy dài từ Di Linh xuống nối với
vòng cung núi phía tả ngạn sông La Ngà. Gần đó, thấp thoáng xa xa mờ mờ trong
làn sương là ngọn Xà Lùng, ngọn núi cô độc nổi lên ở giữa cao nguyên, hay ngọn
núi Vú có năm đỉnh như cô gái nằm xoã tóc ở rặng núi ven sông La Ngà ở phía Nam . Ngay dưới
chân Spung có thể thấy mấy căn nhà dài của buôn Kon Tẻh ở phía đông, buôn B’Lao
Sré ven con nước Đạ Bin hay cả làn khói lam chiều từ buôn B’su Đăng Lú, B’Su Đạ
Lào.
Nhưng khung cảnh đại ngàn hoang
sơ đó, giờ chỉ còn trong ký ức, trong các câu chuyện kể. Rồi cũng sẽ chẳng còn
mấy người từng lên đỉnh Spung những ngày xưa ấy, để mà kể chuyện, bụi thời gian
sẽ phủ dần lên, cây trà đang dần leo lên đến đỉnh núi và từ đó một vùng đất với
các đồi trà xanh thẳm, làm nền cho một đô thị mới sẽ dần lớn lên mãi.
Ghi chép: Ninh Thế Hùng.